Tâm sự

Tâm sự

mercredi 14 mars 2012

Cây Song long thọ- Boulet de canon

Boulet de canon-Ayahuma
Sala
Cây song long thọ
Cây đầu lân

Couropita Guianensis Aubl.

Lecythidaceae


Đại cương :
Cây Couroupita guianensis, tên thông thường gọi là Ayahumavà cây « đạn cà nông Cannonball » là một cây có lá không rụng quanh năm và có nguồn gốc vùng nhiệt đới phía Bắc nam Mỹ và miền nam Caraibes.
Tại Ấn Độ, sự hiện diện và phát triển ít nhất cũng hai hay ba ngàn năm, do đó, có thể nói rằng cây « song long thọ » có nguồn gốc ở Ấn Độ, thuộc họ Lecythidaceae, phát triển có thể đạt đến 25 m chiều cao.
Tên gọi « « Arbre Cannonball » như vậy vì lý do những trái giống những viên đạn đại bác cannon thời xưa, màu nâu.
Phần lớn các cây, không phải mọc ngoài thiên nhiên, được trồng do dạng cây lớn cổ thụ và hoa mọc đẹp, thơm và lạ.
Hoa rất đặc biệt màu cam sặc sở, đôi khi đỏ tươi, mọc thành chùm có thể dài 3 m chiều dài.
Trái, hình cầu, to, đường kính 15 – 24 cm chứa bên trong khoảng 200 đến 300 hạt mỗi trái.
Biểu tượng tôn giáo ở Á Châu :
Các cây được trồng rộng rải trong các đền thờ Shiva ở Ấn Độ. Tiếng Hindi, cây được gọi là Shiv Kamal và cũng được biết đến như « Kailaspati ». Cây được gọi là cây Nagalingam ở Tamil.
Hoa gọi là « hoa Shivalinga » tại Hindi. Tại Ấn Độ, tôn giáo tôn kính như là một cây thiêng liêng bởi vì các cánh hoa tương tự như một cái mui xa của Naga, một con rắn thiêng, bảo vệ cho thần Shiva Lingam, Lingam biểu tượng năng lực sáng tạo của đàn ông hay dương vật.
Tại Tích lan và Thái Lan  và các quốc gia Phật giáo khác, cây thường trồng ở các chùa Phật giáo và hiện nay nhiều người bị hiểu lầm giữa cây « song long thọ Sala » và cây « vô ưu Ashok ».
Trong Phật giáo có 3 cây biểu tượng qua cuộc đời của Đức Phật :
- Cây vô ưu là cây Đức Phật ra đời,
- Cây Bồ Đề là cây Đức Phật thành đạo,
- Cây song long thọ là cây Đức Phật nhập diệt, trong cây này lại có sự nhầm lẫn giữa cây Sala và cây Shorea robusta, 2 cây khác nhau .
Trong khuôn khổ dược thảo, tôi đề cập tới 2 cây trước là cây Sala và cây Ashok.
Để tiện việc phân biệt, tôi xin giới thiệu bài viết của cư sỉ Tuệ Lạc, người đã từng sống bên cạnh 2 cây này tại Ấn Độ trong thời gian du học tại Ấn Độ.
 « Trong cuộc điện đàm mới đây, cụ đề nghị tôi phân biệt về 2 cây « SONG LONG THỦ » và «VÔ ƯU». Với tư cách là một cựu sinh viên, học nhiều năm tại Đại Học Nalanda (Ấn Độ), tôi xin khiêm nhượng trình bày như sau :
Couropita Guianensis Aubl : Cây « Song Long thủ » tiếng Phạn (hay Phạm) gọi là SALA. Cây nầy cao lớn viền lá không răng, và có hoa mọc từ nhánh thân, thành những chùm. Trong mỗi chùm có nhiều cặp hoa, khi nở trông giống như đầu rồng (Long Thủ). Nên ngôn ngữ Hán Việt gọi là « cây song long thủ ». Nhưng để cho ngắn gọn, dễ nhớ  hơn, người ta bỏ chữ « cây » và chữ « thủ » và thêm vào chữ « thọ », rồi gọi là SONG LONG THỌ.
Kinh Phật (Pàlì=Phạn hay Phạm ngữ) ghi rõ : Đức Phật đã nhập Niết Bàn dưới những tàng cây SALA. Và hoa SALA ( SONG LONG THỌ ) đã rơi xuống cúng dường NGÀI…..
Hoa Song Long Thọ đa sắc (nhiều màu), chứ không đơn sắc (một màu).
Saraca asoca ( Roxb.) Wilde : Còn cây « Vô Ưu ». Danh từ nầy tôi nghĩ là được dịch từ tên cây ASOKA. Theo tiếng Pàlì và Hindi ( ngôn ngữ Ấn Độ ngày nay ), thi ASOKA có nghĩa là « không buồn phiền ». Xin « chiết tự » như sau :
-Tiếp đần ngữ phủ định « A » có nghĩa là « không ». Và « SOKA » có nghĩa là buồn hay ưu phiền. ASOKA cũng ám chỉ phẩm danh A-DỤC, tên một hoàng đế nổi tiếng trong lịch sử Ấn Độ và Phật giáo. Đó là vua đại hộ pháp A Dục. Sau khi trở thành Phật tử, Ngài đã dùng Phật giáo làm cho bá tánh ít ưu phiền !
Cây ASOKA nầy cũng cao lớn, nhưng thấp hơn cây SALA. Nó rất nhiều lá màu đậm, phủ kín cành. Sở dĩ nó được gọi là ASOKA (Không Ưu Phiền hay Vô Ưu), vì nó quanh năm xanh mướt. Sống trong bất cứ hoàn cảnh thời tiết nào ( cực nóng, cực lạnh, cực khô, cực ướt), những thảo mộc khác có thể khô héo, xác xơ, hay chết… Nhưng cây ASOKA vẫn xanh tươi. »
Thực vật và môi trường :
Nguồn gốc : có thể cho rằng cây song long thọ có nguồn gốc ở Ấn Độ.
Mô tả thực vật :
Thân đại mộc trung, lá kkông rụng quanh năm đạt đến 30 m cao,
, Lá mọc xoắn ốc và mọc xen ở đầu nhánh, thon ngược, láng,  dai, cứng, hình mũi giáo 7,5 – 26 x 2,3 – 7,5 cm.
Chùm ở dọc theo thân, dài đến 1,5 m,
Hoa lưỡng trắc, thơm thơm, hình ống dài 2 - 3 cm đường kính, đài hoa với 6 lá đài hình tam giác, cánh hoa 6 thuôn dài, màu trắng vàng màu đỏ đáy vàng,
Tiểu nhụy nhiều có 2 loại phấn hoa nằm trong bao phấn :
- phấn hoa của  tiểu nhụy của hoa hình ống nằm ở dưới hữu thụ.
- phấn hoa của tiểu nhụy kết thành mủ chụp trên bất thụ, nhiều và kết thành cái mủ trùm phẳng màu vàng, bầu noản sào hạ,.
Phì quả tròn to khoảng 15 – 20 cm, có lá đài còn lại ở giữa, trung quả bì gọi là nạt có mùi, màu vàng tươi khi phơi ngoài môi trường bị oxy hóa biến thành màu xanh nhạt. hột nhiều.
Trái và hoa phát triển mọc ra từ thân cây
Thụ phấn được thực hiện bởi những loài ong và những loài dơi murciélagos.
Cây Song long thọ, phát tán hạt rất khó khăn, lý do ở bản chất khó khăn không thích ứng của cây :
- thời gian chịu khô rất ngắn
- và kém và không cho phép dưới nhiệt độ thấp.
- Không đối đầu với trời lạnh giá.
Tuy nhiên, trái cây Song long thọ, phát triển ở độ cao thấp hơn trên thân và chạy dọc theo thân nên sự rủi ro rơi gây tổn thương rất là ít.
Những cây này mọc và phát triển rất nhiều nơi các đền thờ Shiva ở Ấn Độ.
Bộ phận sử dụng :
Nước ép trái và lá, lá, trái, hoa
Thành phận hóa học và dược chất :
Hoa Song long thọ chứa :
- alipathic hydrocarbon
- and stigmasterol.
- alkaloids,
- phenolics
- và flavonoids.
- Hoạt chất chánh :
- isatine
- và indirubine ( quan trọng trong hoạt động kháng khuẩn )
- Kiểm tra hóa học thực vật dẫn đến những flavonoïdes :
- 2',4'-dihydroxy-6'-methoxy-3',5'-dimethylchalcone,
- 7-hydroxy-5-methoxy-6,8-dimethylflavanone,
- acide phénolique
- và acide 4-hydroxybenzoïque.
Đặc tính trị liệu :
Những người dân bản xứ dùng vỏ để làm :
- bột thuốc độc,
- chất tạo buồn nôn,
Một vài bộ lạc chế tạo thuốc, họ cho là để tăng sức lực cơ thể.
Trái cây đầu lân có tác dụng :
- kháng sinh,
- kháng nấm antifungal,
- sát trùng antiseptique
- và có đặc tính giảm đau.
Cây dùng để chữa trị :
- cảm lạnh,
- và đau bao tử.  
Nước ép từ lá  được dùng để :
- chữa lành những bệnh ngoài da .
Và những vị pháp sư ở Nam Mỹ cũng dùng những mãnh cây để chữa trị bệnh sốt rét.
Bên trong quả đầu lân ( nội quả bì ) có thể :
- khử trùng những vết thương
và lá non trị đau răng.
Trái ăn được, nhưng không thú vị lắm lý do có mùi hôi khó chịu của nạt bên trong.
Nghiên cứu :
Sự phát triển những tế bào mô sợi da và chất chống oxy hóa : Nghiên cứu chất trích trong hydroalcoolique, người ta khẳng định cho thấy hoạt động chống oxy hóa do hàm lượng phénolique. Ngoài ra, sự hấp thụ tia tử ngoại UV. Kết quả cho thấy đặc tính chăm sóc da đầy hứa hẹn.
● Kháng sinh và chống oxy hóa :
Những nghiên cứu cho thấy hoạt tính chống lại vi khuẩn Shigelle flexneri, Staphyllococcus aureus, Candila albicans.
Các thành phần phénoliqueflavonoïdes có tiềm năng chống oxy hóa rất mạnh.
Chống lại một sự cảm giác đau : Kết quả cho thấy Couroupita guioanensis trưng bày qua trung gian hoạt động của « nhận thức cảm giác đau » (đây là hệ thống tự vệ và báo động, các hiện tượng hội nhập vào thần kinh trung ương và các kich thích đau qua các thụ thể cảm giác ở da, một phần, bởi :
- hệ thống opioides ( chất tổng hợp tác dụng như thuốc phiện nhưng thành phần hoá học không giống )
- và hệ thống cholinergique ( là những protéin xuyên màng có khả năng của acéthylcholine tự do của ngoại bào và truyền cảm ứng tín hiệu vào trong tế bào chất ),
- và con  đường oxyde nitrique.
Làm lành vết thương và sát trùng : Nghiên cứu chất trích của toàn bộ  cây couroupia guianensis ( vỏ, lá, hoa, và trái ) trên vết cắt, mẫu dạng vết thương, vết rạch cho thấy có sự gia tốc trong quá trình hóa sẹo lành vết thương bởi sự thu hẹp diện tích bề mặt và tăng tốc độ kéo màng. Hoạt động này được quan sát trên tất cả các cơ quan thữ nghiệm.
Trong quá trình nghiên cứu kháng khuẩn, kháng nấm sử dụng thí nghiệm trên đối tượng được thảo Couroupita guianensis và thí nghiệm trên tất cả các thành phần bộ phận của cây thân, lá, hoa,và trái cho ta kết quả thấy rằng :
● Tiềm năng chống lại sự oxy hóa của những :
- alcaloïdes,
- flavonoïdes,
- phénolique.
Tất cả, hoạt động chống khuẩn đã được liên kết mạnh duy nhất do phần alcaloïde với :
- phénolique,
- và phần flavonoïdes hiện diện các hoạt động không đáng kể. Vì vậy người ta nhận thấy rằng đặc tính kháng khuẩn là do hợp chất alcaloïdes.
● Phân tích bởi HPLC (high performance liquid chromatography), xác định sự hiện diện của 5 đỉnh pics lớn trong trích chất của hoa couroupita guianensis trong méthanolique. Quang phổ IR của couroupita hiện diện :
- polyphénoles
- và alcaloïdes của các mẫu hoa.
Phân tích kết hợp quang phổ của hoa couroupita guianensis, xác nhận sự hiện diện của :
- alcaloïdes,
- hợp chất phénolique,
- và những flavonoïdes.
Phân tích những hoạt động sinh học của các phần đoạn ( fraction ) đã rút ra kết quả hoạt động chống khuẩn trong phần đoạn alcaloïde và chất chống oxy hóa, một tiềm năng mạnh trong các phần phân đoạn của phénoliques và flavonoïdes.





Nguyễn thanh Vân

Aucun commentaire: