Tâm sự

Tâm sự

dimanche 29 janvier 2012

rau răm - Renoué odorante

Reno odorante
Rau Răm
Polygonum odoratum Lour .
Polygonaceae
Đại cương :
Rau răm là một loài thực vật bò lan ở Đông Dương, những lá non ở ngọn được dùng trong nấu ăn và trong y học Châu Á.
Hương vị của rau răm gợi cho ta nghĩ đến những rau mùi như ngò và sả, đặc biệt nhất là khi người ta ăn sống. Thân có vị cay hơn lá. Nấu chín, rau răm có vị thơm cay kèm với thịt hoặc gà như nấu canh « canh gà rau răm ».
Trong tiếng Pháp, người ta tìm thấy danh từ “ bạc hà việt nam, menthe vietnamienne ”, húng quế trung quốc, hay renoué odorante.
Nhưng danh từ “ rau răm ” có nghĩa cỏ bạc hà việt nam ( phát âm như “jao jam” hay “zao zam” v…v…thông dụng như ở Anh chẳng hạn.
Rau răm mọc và phát triển trong mặt đất vườn, trong chậu ..v…v.., rau răm chịu đất ướt nhiều nước, mầu mỡ và chịu bóng râm.
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực vật :
Rau răm là một loại rau mùi sống lâu năm, nhưng trong những vùng lạnh giá băng thì người ta trồng hằng năm. Người ta nhân giống bằng cách giâm cành, thân bò rồi đứng, lá nhọn có vị cay và thơm, ( chất polygonom ), phát triển ở những vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trong điều kiện khí hậu ấm và ẩm ướt. Trong những điều kiện thuận lợi, rau răm có thể phát triển lớn từ 15 đến 30 cm.
Vào mùa đông hay khí hậu quá cao rau có thể bị tàn rụi.
Lá, có phiến thon, lá rau răm, lá nguyên đơn, hình mũi giáo, được mang trên cuống hình chữ V hay chữ U ngược, không lông, phía trên chót lá có màu xanh đậm, có những bớt đậm đỏ nhạt ở giữa phiến, phía dưới cuống lá bao lấy thân tạo thành đốt.
Phát hoa , gié yếu, màu hường nhạt, lá đài 5, tiểu nhụy 3, noản sào không lông, vòi nhụy 3.
Quả, bế quả cao 1,5 mm.
Không nên lầm lẫn với “ sceau de Solomon hôi ” ( Polygonatum odorum ) thơm nhưng độc.
Bộ phận sử dụng :
Lá và thân
Thành phận hóa học và dược chất :
(J. of Essential Oil Research, 9, 603, 1997)
Tinh dầu của lá rau răm chứa:
Những aldehyde như:
- decanal (28%)
- và dodecanol (44%),
- cũng như alcohol decanol (11%).
- undécanal,
-  Z-3-Hexenal
Sesquiterpenes như:
- α-humulene
- và β-caryophyllene bao gồm khoảng 15% tổng lượng dầu.
Đặc tính trị liệu :
Theo các nhà nghiên cứu Việt Nam và y học dân gian, rau răm có vị đắng cay, không độc và có thể dùng làm thuốc giải độc thực phẩm.
Rau răm có thể được sử dụng để điều trị :
- viêm sưng,
- mụn trứng cá,
- chứng khó tiêu,
- đầy hơi,
- và đau bụng.
Hiệu quả trên sức khoẻ :
Cũng như trong nhiều dược thảo Việt Nam, rau răm được sử dụng để ức chế, đè nén sự ham muốn tình dục.
Trong ca dao Việt nam có câu « rau răm, giá sống », có nghĩa rau răm có khả năng làm giảm sự ham muốn tình dục trong khi giá sống có hiệu quả tác dụng ngược lại.
Nhiều tu sỉ Phật giáo, trồng và phát triển rau răm chung quanh khu vườn riêng của mình và ăn thường xuyên cũng là một bước hữu ích cho cuộc sống độc thân diệt dục của họ.
Hiệu quả xấu và rủi ro :
Làm tê liệt ruột và tử cung trụy thai, ức chế sự ham muốn tình dục.
Ứng dụng :
Cây rau răm, nhất là lá đã được xác định và công nhận với các món ăn đặc biệt việt nam không thể thiếu như :
- ăn sống với những món rau cải salade ( bao gồm salade thịt gà, thịt heo luộc ),
- món ăn mùa hè như gỏi cuốn,
- cũng như những món canh, canh chua gà …, bún thang,
- các món hầm, món kho như cá kho.
- cũng nên kể đến món ăn của người việt nam “ hột vịt lộn rau răm ”.
Trong món ăn của người Cambodge, lá rau răm được gọi là krasang tomhom và được sử dụng trong món súp, món ăn hầm, salade và những món tươi mát mùa hè như “ naem ”.
Ở Singapore và Mả lai, lá rau răm được cắt nhỏ là một gia vị thiết yếu của món “ laksa ”, một món súp cay vì có rất nhiều lá tên gọi “ Malay daun laksa ” gọi là “ lá laksa ”.
Tại Lào và một vài nơi ở Thái Lan lá rau răm được ăn với bò sống.
Ở Úc, cây rau răm được nghiên cứu điều tra như là một nguồn tinh dầu ( dầu kesom )

Nguyễn thanh Vân